Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân và của người lao động, được thành lập trên cơ sở tự nguyện, là thành viên trong hệ thống chính trị của xã hội Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam; đại diện cho cán bộ, công chức, viên chức, công nhân và những người lao động khác (sau đây gọi chung là người lao động), cùng với cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động; tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội, tham gia thanh tra , kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp; tuyên truyền vận động người lao động học tập, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đổi mới tổ chức và hoạt động công đoàn Ngành Giáo dục đáp ứng tình hình mới theo tinh thần Nghị quyết số 02-NQ/TW ngày 12/06/2021

Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân

16.06.2021 10:18578 đã xem
(Danvan.vn) Dân chủ là khát vọng sâu xa, cũng là thành tựu của cuộc đấu tranh lâu dài của các dân tộc và của loài người. Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hóa thế giới, Lãnh tụ vĩ đại của dân tộc, đã để lại cho Đảng, đất nước ta di sản tư tưởng quý báu với nhiều nội dung cốt lõi và sinh động, trong đó có vấn đề dân chủ.

 

 

 Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến cuộc sống nhân dân,
tôn trọng ý kiến và phát huy quyền làm chủ của nhân dân

 

1. Một số vấn đề lý luận về dân chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ là kết quả của sự nhận thức sâu sắc về vai trò của nhân dân trong lịch sử: “Dân là quý nhất, là quan trọng hơn hết, là tối thượng”, “Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”(1); “Dân là gốc của nước, của cách mạng”, “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân”, “Dân chúng đồng lòng, việc gì cũng làm được. Dân chúng không ủng hộ, việc gì làm cũng không nên”(2); “Nước lấy dân làm gốc. Gốc có vững cây mới bền. Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”(3). Người đã huy động sức mạnh của toàn dân trong cuộc đấu tranh tự giải phóng mình, góp phần to lớn đưa dân tộc Việt Nam tới độc lập, tự do, đưa nhân dân ta từ kiếp nô lệ lên địa vị làm chủ đất nước, làm chủ xã hội; vì vậy, “đối với dân, ta đừng có làm gì trái ý dân”. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức rất rõ vai trò của dân chủ, coi dân chủ là nhân tố động lực của sự phát triển; thực hành dân chủ là chìa khóa vạn năng để giải quyết mọi khó khăn. 

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, bản chất của dân chủ tức là dân là chủ và dân làm chủ. Người chỉ rõ, địa vị của nhân dân là người chủ đối với xã hội, đất nước và nhân dân là chủ thể của quyền lực. Đây là nội dung cốt lõi trong tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh, phản ánh giá trị cao nhất, chung nhất của dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân: “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”(4), “chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là dân làm chủ”(5). Điều này khẳng định giá trị xã hội đích thực của dân chủ là ở chỗ giành về cho đại đa số nhân dân lao động những quyền lực của chính họ thông qua đấu tranh cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới của chính bản thân quần chúng nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ có một “ham muốn, ham muốn tột bậc là làm cho nước nhà được độc lập, nhân dân được tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Người đã phấn đấu không mệt mỏi, làm tất cả để thực hiện Độc lập - Tự do - Hạnh phúc cho Tổ quốc, cho dân tộc và nhân dân. Người đã rút ra một chân lý không chỉ cho dân tộc mà còn cho cả nhân loại “không có gì quý hơn độc lập, tự do”. 

Thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh sự cần thiết phải xây dựng chế độ dân chủ, thể chế chính trị và thể chế nhà nước dân chủ, nhà nước của dân, do dân và vì dân. Người khẳng định: “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”(6). Nhà nước ta là nhà nước của dân; coi nhân dân là chủ thể quyền lực; nhà nước là công cụ của nhân dân, là hình thức để tập hợp, quy tụ sức mạnh của toàn dân tộc vào sự nghiệp chung chứ nhà nước không phải là nơi để “thăng quan, phát tài”, chia nhau quyền lực, lợi ích và bổng lộc.

Sau khi nước nhà giành độc lập, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ cách mạng Việt Nam dân chủ cộng hòa, Người yêu cầu tổ chức càng sớm càng tốt cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu. Nhà nước do dân tức là dân phải tham gia vào công việc của nhà nước. Quốc hội nước ta tuy ở vị trí cao nhất song không phải là cơ quan tập trung tất cả quyền lực. Khi xuất hiện những công việc liên quan đến vận mệnh của quốc gia, thì sẽ được đưa ra toàn dân phúc quyết. Nhà nước do dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh là dân tự làm, tự lo việc, thông qua các mối quan hệ trong xã hội, qua các đoàn thể, chứ không phải nhà nước bao cấp, lo thay dân, làm cho dân thụ động, ỷ lại, chờ đợi. Nhà nước vì dân, tức nhà nước ta ngoài lợi ích phục vụ dân chúng không có lợi ích nào khác, đó là bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước ta. Người yêu cầu mọi việc làm của Nhà nước phải thể hiện rõ bản chất đó: “Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại cho dân, ta phải hết sức tránh”(7). Người nhắc nhở chính quyền các cấp phải tránh cho được các lầm lỗi, khuyết điểm, những thói hư tật xấu, những chứng bệnh vốn dễ tập nhiễm trong các cơ quan quyền lực nhà nước như: cậy thế, hủ hóa, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo...

Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu mọi chủ trương, chính sách, mọi quy định của nhà nước từ trung ương đến địa phương đều phải xuất phát từ lợi ích của dân. Mọi cán bộ nhà nước đều vì dân, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Một nhà nước vì dân phải đảm bảo cho dân có được cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Người đã chỉ ra một cách rõ ràng trách nhiệm, nghĩa vụ của Đảng, Nhà nước đối với nhân dân. “Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi”. Nhà nước vì dân không chỉ biết làm lợi cho dân mà còn phải kính dân. Người nhắc nhở, chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta; đồng thời phải làm cho nhân dân hiểu rõ: “Nhân dân có quyền lợi làm chủ, thì phải có nghĩa vụ làm tròn bổn phận công dân, giữ đúng đạo đức công dân”(8).

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nhà nước của dân, do dân, vì dân phải là một nhà nước pháp quyền có hiệu lực mạnh, được quản lý bằng pháp luật và phải làm cho pháp luật có hiệu lực trong thực tế. Trong một nhà nước dân chủ, dân chủ và pháp luật phải luôn đi đôi với nhau, có mối quan hệ chặt chẽ mới bảo đảm cho chính quyền trở nên mạnh mẽ. Không thể có dân chủ ngoài pháp luật, pháp luật là bà đỡ của dân chủ. Mọi quyền dân chủ của người dân phải được thể chế hóa bằng hiến pháp và pháp luật, ngược lại hệ thống pháp luật phải bảo đảm cho quyền tự do, dân chủ của người dân được tôn trọng trong thực tế. Xây dựng một nền pháp chế xã hội chủ nghĩa đảm bảo việc thực hiện quyền lực của nhân dân là mối quan tâm suốt đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó, Người cũng chỉ rõ mối quan hệ giữa chuyên chính với dân chủ: “chế độ nào cũng có chuyên chính, vấn đề là ai chuyên chính với ai?... Như cái hòm đựng của cải thì phải có cái khóa. Nhà thì phải có cửa… Dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân, chuyên chính là cái khóa, cái cửa để đề phòng kẻ phá hoại… Thế thì dân chủ cũng cần phải có chuyên chính để giữ gìn lấy dân chủ”(9).

 Người luôn xác định, dân chủ là động lực của tiến bộ xã hội, của phát triển. Nền dân chủ mà chúng ta đang ra sức xây dựng là nền dân chủ của tuyệt đại đa số nhân dân, gắn với công bằng và tiến bộ xã hội trong từng bước phát triển và từng chính sách phát triển. Bác Hồ đã từng nói: lãnh đạo một nước mà để cho dân mình lạc hậu, bị thiệt thòi trong hưởng hạnh phúc con người cũng là mất dân chủ. Làm chủ là quyền thiêng liêng của nhân dân không ai có thể xâm phạm. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh trách nhiệm của Đảng, Nhà nước trong việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân là làm sao cho họ có năng lực làm chủ, biết hưởng, dùng quyền dân chủ, dám nói, dám làm. Phát huy dân chủ là phát huy tài dân, muốn vậy, thì phải “Trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân”. Theo Bác: “Không học hỏi dân thì không lãnh đạo được dân. Có biết làm học trò dân, mới biết làm thầy học dân”.

Trọng dân, tin dân, học dân, tổ chức và giáo dục để phát huy sức mạnh của dân là điều nhất quán trong toàn bộ sự nghiệp hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người khẳng định: tin vào dân chúng, đưa mọi vấn đề cho dân chúng thảo luận và tìm cách giải quyết. Chúng ta có khuyết điểm, thì thật thà thừa nhận trước mặt dân chúng. Nghị quyết gì mà dân chúng cho là không hợp thì để họ đề nghị sửa chữa. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, trước khi làm bất cứ việc gì, Đảng và chính quyền cũng phải bàn bạc với nhân dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm của họ, cùng với họ đặt kế hoạch cho phù hợp với hoàn cảnh địa phương, rồi động viên và tổ chức họ thi hành. Trong lúc thi hành lại phải theo dõi, giúp đỡ, đôn đốc, khuyến khích nhân dân; thi hành xong phải cùng với họ kiểm thảo lại công việc, rút kinh nghiệm, phê bình, khen thưởng. Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã từng bước tạo được cơ sở kinh tế, chính trị, xã hội của nền dân chủ XHCN; quyền lực xã hội của nhân dân được xác định trong Hiến pháp và pháp luật; nhu cầu dân chủ của nhân dân ngày càng phát triển; ý thức và năng lực thực hành dân chủ của nhân dân ngày càng được nâng cao...

2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân của Đảng ta

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, quan điểm xuyên suốt của Đảng ta, đó là: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước”(10). Để đáp ứng yêu cầu mở rộng dân chủ, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách phát huy quyền làm chủ của nhân dân.

Đại hội VI của Đảng mở đầu công cuộc đổi mới đã đề ra phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" và đúc kết bài học kinh nghiệm: "Trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng "lấy dân làm gốc", xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động".

Đại hội VII của Đảng nêu yêu cầu, phải tổ chức và vận động các tầng lớp nhân dân hăng hái tham gia xây dựng pháp luật, chính sách, đóng góp ý kiến với cơ quan nhà nước các cấp xây dựng các quy chế, quy ước phù hợp với luật pháp và chủ trương, chính sách của Nhà nước, tham gia phổ biến pháp luật trong nhân dân và tổ chức các phong trào quần chúng thực hiện pháp luật và chính sách của Nhà nước.

Đại hội VIII của Đảng xác định nhiệm vụ xây dựng cơ chế để thực hiện phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" đối với các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; thực hiện tốt cơ chế làm chủ của nhân dân thông qua các cơ quan dân cử, làm chủ trực tiếp bằng hình thức tự quản, bảo đảm dân chủ trong quá trình ra quyết định và thực hiện các quyết định.

Đại hội Đảng lần thứ IX nêu rõ: “Thực hiện tốt quy chế dân chủ, mở rộng dân chủ trực tiếp ở cơ sở, tạo điều kiện để nhân dân tham gia quản lý xã hội, thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng. Khắc phục mọi biểu hiện dân chủ hình thức. Xây dựng Luật trưng cầu ý dân”.

Đại hội Đảng lần thứ X xác định: “Mọi đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, có sự tham gia ý kiến của nhân dân”.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển năm 2011), một lần nữa Đảng ta khẳng định: “Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời nhân dân sẽ đưa đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng”,“Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”,“Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân; có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, lạm quyền, xâm phạm quyền dân chủ của công dân; giữ nghiêm kỷ cương xã hội, nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân”.

Nghị quyết Đại hội XII của Đảng tiếp tục nêu rõ:“Tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phải xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, được nhân dân tham gia ý kiến. Dân chủ phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, từ nêu sáng kiến, tham gia thảo luận, tranh luận đến giám sát quá trình thực hiện. Tập trung xây dựng những văn bản pháp luật liên quan trực tiếp đến quyền làm chủ của nhân dân”(11),“Thể chế hóa và thực hiện tốt phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”(12).

Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và việc bảo đảm phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay không chỉ được khẳng định trong chủ trương, đường lối của Đảng mà còn được thể chế hóa và bảo đảm thực hiện thông qua Hiến pháp và hệ thống pháp luật của Nhà nước. Trên phương diện xây dựng, hoàn thiện thể chế chính sách, pháp luật về thực hiện dân chủ, Đại hội XII đánh giá:Đảng và Nhà nước tiếp tục ban hành nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật nhằm phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được xác định đầy đủ hơn trong Hiến pháp năm 2013 và trong hệ thống pháp luật mới được ban hành và sửa đổi. Khẳng định rõ các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật; gắn quyền công dân với nghĩa vụ và trách nhiệm đối với xã hội”(13).

Minh chứng sống động cho đánh giá trên của Đảng là nguyên tắc hiến định về thực hành, phát huy dân chủ được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013, như: “1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; 2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức” (Điều 2);“Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người đều có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện” (Điều 3); “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước”(Điều 6)... Quyền dân chủ của nhân dân còn được ghi nhận tại Chương II Hiến pháp năm 2013 (quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân) cũng như trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác, như: Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật trưng cầu dân ý, Luật đất đai, Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật tố tụng dân sự, Luật tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức Chính phủ, Luật tổ chức Chính quyền địa phương, Luật tiếp cận thông tin, Luật báo chí, Luật phổ biến, giáo dục pháp luật, Bộ luật lao động, Luật bảo hiểm y tế...

3. Thực tiễn thực hiện dân chủ trực tiếp thông qua Quy chế dân chủ ở cơ sở thời gian qua

Trong khi hết sức coi trọng việc phát huy dân chủ ở cấp Trung ương, nơi hoạch định các chủ trương, chính sách vĩ mô, chúng ta phải ra sức nắm lấy việc phát huy dân chủ ở cơ sở, bởi cơ sở là nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, nơi thực hiện quyền của nhân dân một cách trực tiếp và rộng rãi nhất. Thời gian qua, xuất phát từ yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn sau những sự việc xảy ra tại Thái Bình và một số địa phương do những thiếu sót trong thực hành và phát huy dân chủ ở cơ sở từ cuối thập niên 90 của thế kỷ trước, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 30-CT/TW, ngày 18/02/1998 về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Đây là một chủ trương lớn của Đảng, có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong việc xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, và đây cũng là lần đầu tiên Đảng ta ban hành một văn bản riêng để lãnh đạo, chỉ đạo cụ thể hóa phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, đánh dấu bước chuyển biến nhận thức về dân chủ và thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa, thể hiện 5 quan điểm cơ bản về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị: Việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân phải đặt trong cơ chế tổng thể của hệ thống chính trị “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ". Vừa phát huy tốt chế độ dân chủ đại diện, nâng cao chất lượng và hiệu lực hoạt động của Quốc hội, Chính phủ, hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân các cấp, vừa thực hiện tốt chế độ dân chủ trực tiếp ở cấp cơ sở để nhân dân bàn bạc và quyết định trực tiếp những công việc quan trọng thiết thực, gắn liền với lợi ích của mình. Phát huy dân chủ phải gắn liền với phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao dân trí, tạo điều kiện mở rộng dân chủ có chất lượng và hiệu quả. Dân chủ phải đi đôi với kỷ cương, trật tự; quyền hạn gắn với trách nhiệm, lợi ích đi đôi với nghĩa vụ; chống quan liêu, mệnh lệnh, đồng thời chống tình trạng vô chính phủ, lợi dụng dân chủ để vi phạm pháp luật. Gắn quá trình xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ với công tác cải cách hành chính, sửa đổi những cơ chế, chính sách về thủ tục hành chính không phù hợp.

Thể chế hóa các chủ trương, quan điểm của Chỉ thị số 30-CT/TW, các cơ quan Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật nhằm đẩy mạnh thực hiện dân chủ ở cơ sở: Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành nhiều nghị quyết, kết luận và năm 2007, ban hành Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11 về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn; Chính phủ đã ban hành, bổ sung, sửa đổi, thay thế nhiều nghị định về quy chế thực hiện dân chủ các loại hình cơ sở, hiện nay đang thực hiện Nghị định số 149 (2018) về quy chế dân chủ ở cơ sở tại nơi làm việc (doanh nghiệp) và Nghị định số 04 (2015) về thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập. Đây là những văn bản pháp lý quan trọng, đang có hiệu lực thi hành, góp phần đưa các nội dung, quan điểm của Đảng ta về thực hành và phát huy dân chủ, xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở đi vào cuộc sống.

Thực hiện các chỉ thị, kết luận của Đảng và các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước, thời gian qua, nhất là những năm gần đây, việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở đã có nhiều chuyển biến tích cực. Nhận thức về dân chủ và thực hành dân chủ của cấp uỷ, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và các tầng lớp nhân dân ngày càng được nâng lên. Thực hiện cải cách hành chính, nhất là cải cách thủ tục hành chính có nhiều chuyển biến. Công tác đối thoại, tiếp công dân, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo và những kiến nghị, nguyện vọng chính đáng, hợp pháp của người dân, doanh nghiệp được quan tâm hơn trước. Tinh thần, thái độ phục vụ nhân dân, đạo đức công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có nhiều tiến bộ. Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng, tổ hòa giải ở cơ sở nhiều nơi hoạt động khá hiệu quả, phát huy được dân chủ trực tiếp của nhân dân tại địa bàn dân cư. Hoạt động giám sát, phản biện xã hội, góp ý xây dựng Đảng, chính quyền của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội đạt nhiều kết quả, một số nơi đã tổ chức được các hoạt động phản biện xã hội ở cấp huyện và cơ sở. Nhân dân tham gia tích cực hơn vào công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng chính quyền. Quyền làm chủ của nhân dân, các hình thức dân chủ đại diện được phát huy, dân chủ trực tiếp được mở rộng; phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" được cụ thể hóa trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội.

Việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở đã góp phần phát huy được vai trò, tiềm năng, sức sáng tạo của nhân dân tham gia bàn bạc những công việc của địa phương, đất nước; góp ý kiến xây dựng chính sách, pháp luật, hương ước, quy ước, góp ý xây dựng Đảng, chính quyền, tham gia giám sát hoạt động của cán bộ, công chức, đảng viên ở khu dân cư. Bầu không khí dân chủ trong Đảng, trong xã hội được mở rộng hơn. Nhiều khó khăn trong quá trình phát triển được nhân dân bàn bạc, tháo gỡ, giải quyết có hiệu quả như: Vấn đề bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi triển khai thu hồi đất để thực hiện các công trình, dự án; hiến đất xây dựng các công trình, dồn điền, đổi thửa, vệ sinh môi trường, xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh; xây dựng các tập thể đoàn kết, hoàn thành tốt các nhiệm vụ chính trị, chuyên môn trong các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp; cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động trong các doanh nghiệp… tạo khí thế phấn khởi, khích lệ các tầng lớp nhân dân đẩy mạnh các phong trào thi đua, góp phần đưa đất nước ta vượt qua khó khăn, giành được những thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân; bảo đảm quốc phòng, an ninh; xây dựng Đảng, chính quyền và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; tạo sự đồng thuận trong xã hội, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân; nâng cao vị thế đất nước ta trên trường quốc tế.

Có được những kết quả trên là do các cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện; đẩy mạnh tuyên truyền, quán triệt và tổ chức thực hiện các chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở; các tầng lớp nhân dân đồng tình ủng hộ, hưởng ứng và tích cực tham gia. Đặc biệt là, Ban Chỉ đạo Trung ương thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở và ban chỉ đạo các cấp đã có nhiều cố gắng, tích cực hoạt động, đề cao trách nhiệm tham mưu với cấp ủy trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện; tăng cường kiểm tra, hướng dẫn, trao đổi kinh nghiệm theo các cụm, khu vực để nhân rộng các mô hình tốt, cách làm hiệu quả, chấn chỉnh, uốn nắn những biểu hiện lệch lạc, yếu kém.

Bên cạnh những kết quả đạt được, cũng cần thẳng thắn chỉ ra những hạn chế, yếu kém như: Công tác tuyên truyền, phổ biến, quán triệt các chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về thực hiện quy chế dân chủ ở một số địa phương, cơ quan, đơn vị chưa kịp thời; nhiều nơi thực hiện còn mang tính hình thức, đối phó. Việc công khai các nội dung liên quan ở nhiều địa phương, cơ sở còn chưa đầy đủ, chưa tạo thuận lợi cho người dân tiếp cận thông tin. Việc phát huy vai trò, trách nhiệm của nhân dân tham gia bàn và quyết định các vấn đề của địa phương, giám sát, góp ý xây dựng Đảng, chính quyền ở một số nơi còn hạn chế. Việc thực hiện quy chế dân chủ trong các loại hình doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp ngoài nhà nước, khu vực dân doanh còn nhiều khó khăn; có lúc, có nơi còn tình trạng vi phạm dân chủ, gây bức xúc, khiếu kiện đông người, vượt cấp, nhưng giải quyết chưa triệt để, nhất là trong thực hiện chính sách, pháp luật về đất đai, đền bù, tái định cư khi thu hồi đất. Việc nắm tình hình nhân dân và xử lý các tổ chức, cá nhân vi phạm quyền làm chủ của nhân dân chưa kịp thời. Vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội trong công tác tuyên truyền, vận động, tập hợp quần chúng, phát huy sức mạnh tổng hợp của quần chúng còn bất cập. Vẫn còn tình trạng một bộ phận người dân lợi dụng dân chủ để yêu cầu, đòi hỏi không chính đáng, không đúng pháp luật, coi thường kỷ cương, phép nước, thậm chí bị các thế lực thù địch lợi dụng, lôi kéo tham gia biểu tình, gây rối, tụ tập đông người, làm mất an ninh, trật tự an toàn xã hội, vi phạm pháp luật.

4. Một số giải pháp phát huy dân chủ trực tiếp trong thời gian tới

Thực tiễn cho thấy, thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân là nhân tố quyết định tạo sự đồng thuận xã hội. Ở nông thôn, khi dân chủ được phát huy, thì mỗi nhà, mỗi người đều được bàn bạc, thấu hiểu để thực hiện tốt công việc chung, tình làng nghĩa xóm gắn bó bền chặt, chia sẻ, giúp đỡ nhau trong đời sống hằng ngày. Ở khu phố, phát huy tốt dân chủ, người dân tham gia hiến kế, cùng xây dựng môi trường sống văn hóa, thân thiện, thì sẽ có những khu phố văn minh. Ở từng cơ quan, đơn vị, nơi nào phát huy tốt dân chủ, nơi đó chắc chắn sẽ có tập thể đoàn kết, thống nhất, hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị, chuyên môn, mỗi thành viên trong tập thể đều gắn bó, chia sẻ. Ở mỗi doanh nghiệp, khi không khí dân chủ được khơi dậy, chủ doanh nghiệp biết lắng nghe tâm tư, nguyện vọng, đề xuất kiến nghị của người lao động, biết đồng cảm, sẻ chia, sẽ hình thành những tập thể lao động sáng tạo, biết đồng cam cộng khổ, cùng nhau vượt khó khăn, tạo ra năng suất, chất lượng, hiệu quả lao động cao gấp nhiều lần… Và ngược lại, nơi nào thiếu dân chủ, chỉ áp đặt và mệnh lệnh, thì nơi đó sẽ thiếu sức sống, bằng mặt không bằng lòng, mất đoàn kết, bè phái, công việc không thể đạt hiệu quả cao. Do vậy, các cấp uỷ đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể cần tiếp tục quán triệt sâu sắc, nhận thức đầy đủ và toàn diện các quan điểm chỉ đạo của Đảng và pháp luật của Nhà nước về thực hiện dân chủ; tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo việc xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ tại từng địa phương, cơ quan, đơn vị đảm bảo thực chất và hiệu quả; nơi nào đã làm tốt thì cần duy trì và làm tốt hơn, nơi nào chưa tốt hoặc chưa đáp ứng yêu cầu thì phải đôn đốc, chấn chỉnh, giúp đỡ thực hiện để tốt dần lên; làm sao để việc thực hiện quy chế dân chủ và phát huy dân chủ trở thành yếu tố nhân văn, là động lực phát triển kinh tế - xã hội, chăm lo tốt hơn cho đời sống, lợi ích, hạnh phúc của nhân dân, thực hiện công bằng xã hội, sống có văn hoá, nghĩa tình, bảo đảm an ninh, an sinh xã hội, tạo động lực cho các phong trào hành động cách mạng của quần chúng, tham gia phát triển đất nước nói chung và từng địa bàn, cơ quan, đơn vị nói riêng.

Một yếu tố quyết định đến chất lượng, hiệu quả của việc xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ, đó chính là vai trò của người đứng đầu cấp uỷ, chính quyền các cấp và các cơ quan, đơn vị. Từng đồng chí bí thư các cấp uỷ, từ Ủy viên Trung ương đến cấp uỷ cơ sở, lãnh đạo chủ chốt các cơ quan nhà nước, chính quyền các cấp, các cơ quan, đơn vị phải tăng cường phát huy dân chủ trong Đảng, công khai, minh bạch trong điều hành của chính quyền, thật sự đề cao vai trò trách nhiệm, tính tiền phong, gương mẫu của người đứng đầu, chống quan liêu, cửa quyền, tham nhũng, lãng phí và các hành vi xâm phạm quyền làm chủ của nhân dân; thường xuyên củng cố, kiện toàn, bố trí cán bộ có phẩm chất, năng lực tốt phụ trách Ban Chỉ đạo thực hiện quy chế dân chủ. Ở đâu cấp uỷ, tổ chức đảng, người đứng đầu gương mẫu, quan tâm lãnh đạo, tạo điều kiện để Ban chỉ đạo hoạt động và phát huy tốt vai trò của mình, thì ở đó việc thực hiện quy chế dân chủ có nền nếp, thực chất và chuyển biến toàn diện, rộng khắp đến từng địa bàn, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp.

Đất nước ngày càng phát triển, đặt ra yêu cầu ngày càng phải đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Trên cơ sở đường lối, quan điểm của Đảng, Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp cần tiếp tục nâng cao hiệu quả hoạt động, thực hiện tốt hơn chế độ dân chủ đại diện; tăng cường rà soát, thể chế hóa các chủ trương của Đảng, bổ sung, sửa đổi, ban hành hệ thống văn bản quy phạm pháp luật nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Đối với những chính sách, pháp luật có quan hệ trực tiếp tới đời sống nhân dân, cần lắng nghe ý kiến nhân dân trước khi quyết định; “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát” phải trở thành phương châm vận động quần chúng, đảm bảo mọi chính sách, pháp luật phải xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng hợp pháp, chính đáng của nhân dân.

Các cơ quan hành chính nhà nước, chính quyền các cấp cần tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, đảm bảo chính sách, pháp luật được thực hiện hiệu quả; tập trung chỉ đạo, điều hành các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho các tầng lớp nhân dân, thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội; đẩy mạnh cải cách hành chính, tạo thuận lợi cho nhân dân thực hiện các thủ tục hành chính; thực hiện nghiêm túc việc tiếp công dân, tăng cường đối thoại, quan tâm giải quyết những kiến nghị, nguyện vọng hợp pháp, chính đáng của nhân dân, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo, không để phát sinh các điểm nóng, vụ việc phức tạp, kéo dài; nâng cao đạo đức công vụ, chất lượng phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; xây dựng chính quyền thật sự thân thiện, gần dân, vì dân.

Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội cần thực hiện tốt vai trò giám sát, phản biện xã hội, nhất là những vấn đề có liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích của nhân dân; các cơ quan chức năng, Ban Chỉ đạo thực hiện quy chế dân chủ, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội cần tiếp tục đẩy mạnh thông tin, tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho các tầng lớp nhân dân về các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tuyên truyền về mục đích, ý nghĩa, tầm quan trọng của việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, giúp nhân dân thấy rõ quyền lợi của mình, tự giác thực hiện đúng trách nhiệm, nghĩa vụ công dân và quyền dân chủ trực tiếp theo pháp luật; ngay cả trường hợp chính sách, pháp luật đúng mà nhân dân chưa hiểu, chưa đồng tình thì phải ra sức tuyên truyền, giải thích, kịp thời điều chỉnh chính sách, pháp luật cho phù hợp với thực tế cuộc sống. Chú trọng tuyên truyền, nhận rộng các gương điển hình, mô hình tốt về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, làm cho việc thực hành dân chủ ngày càng thấm sâu vào mọi hoạt động phong phú, đa dạng của đời sống ở cơ sở.

Dân chủ vừa là giá trị chung của nhân loại, vừa có tính giai cấp, tính lịch sử, đồng thời mang dấu ấn truyền thống, đặc điểm dân tộc và tính chất thời đại. Ở mỗi nước, trình độ của nền dân chủ trong xã hội tùy thuộc phần lớn vào trình độ phát triển của xã hội, trình độ dân trí, quyền hạn và năng lực thực hiện quyền làm chủ của các tầng lớp nhân dân; không một nước nào có quyền áp đặt các khái niệm và nội dung dân chủ của mình cho các quốc gia khác. Do đó, đi đôi với phát huy, mở rộng dân chủ, phải gắn liền với giữ nghiêm kỷ cương, kỷ luật; đề cao trách nhiệm của xã hội, của cộng đồng dân cư; kiên quyết đấu tranh với các âm mưu, thủ đoạn lợi dụng chiêu bài “dân chủ” , “nhân quyền”, xuyên tạc các vấn đề dân tộc, tôn giáo để can thiệp vào công việc nội bộ của đất nước ta.

Năm 2020 là năm tiến hành đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng; muốn phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, trước hết, Đảng phải nêu gương về dân chủ và lãnh đạo chặt chẽ quá trình phát huy dân chủ. Trong sinh hoạt đảng, từ sinh hoạt chi bộ, sinh hoạt cấp ủy, trong công tác cán bộ cũng như trong việc xây dựng, hoàn thiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng cần thể hiện đầy đủ tinh thần phát huy dân chủ, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ; đấu tranh kiên quyết với những hiện tượng độc đoán, chuyên quyền cũng như hiện tượng dân chủ hình thức, vô tổ chức, vô kỷ luật, gây mất đoàn kết nội bộ. Cần có những hình thức lấy ý kiến phù hợp để nâng cao ý thức, trách nhiệm, phát huy tối đa trí tuệ của cán bộ, đảng viên và nhân dân tham gia góp ý vào các văn kiện của Đảng ngay từ cơ sở. Thực hành dân chủ trong sinh hoạt đảng đi liền với việc nâng cao chất lượng tự phê bình và phê bình trong Đảng, đồng thời vận động nhân dân tích cực tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Đó là cách tốt nhất để ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức trong Đảng, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, thực hiện tốt Di nguyện của Người “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng”(14)./.

--------------------------------------

1. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.t.8,tr.276

2, 3, 6, 7, 8. Hồ Chí Minh, Sđd, tâp 5, tr.293; tr.409-410; tr.698; tr.698-700; tr.409-410.

4. Hồ Chí Minh, Sđd, tập 6, tr.515, tr.276.

5. Hồ Chí Minh, Sđd, tập 7, tr.499, tr.572

9. Hồ Chí Minh, Toàn tập Sđd, tập 8, tr.279.

10. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 84-85.

11, 12, 13. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 169; tr. 170; tr. 167

14. Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2019, tr.47

Vũ Thị Hiên
Phó Vụ trưởng Vụ Dân vận các cơ quan nhà nước,
Ban Dân vận Trung ương

(Nguồn: http://danvan.vn/Home/Hoc-tap-va-lam-theo-tu-tuong-dao-duc-phong-cach-Ho-Chi-Minh/12050/Tu-tuong-Ho-Chi-Minh-ve-dan-chu-va-phat-huy-quyen-lam-chu-cua-nhan-dan)

Tin tức khác